Đức Maria 

Lễ sinh nhật Đức Maria

Sau khi tìm hiểu lịch sử lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta cũng đã tìm hiểu lịch sử và chỗ đứng của Kinh Mân Côi trong cuộc sống Kitô hữu, đặc biệt là trong cuộc đời các Thánh. Tiếp tục trình bầy các lễ còn lại về Đức Mẹ, hôm nay chúng ta tìm hiểu lễ Sinh Nhật Đức Maria.

Liên quan tới biến cố Đức Maria sinh ra Đức Hồng Y Ildefonso Schuster, Tổng Giám Mục Milano, đã viết một trong những trang ý nghĩa như sau: ”Như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, cũng thế Đức Maria tất cả rạng ngời sự sống và sự vô tội, sáng chói và vô nhiễm, bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu, là Đấng do công trình của Chúa Thánh Thần, như phụng vụ dậy chúng ta, muốn chính Người nhào nặn thân thể và linh hồn ấy một ngày kia phải dùng làm nhà tạm và đền thờ cho Người. Mẹ là bình minh loan báo ngày đã mọc lên đàng sau các ngọn đồi vĩnh cửu; Mẹ là chồi thần bí nảy sinh từ gốc Giêssê đáng kinh; Mẹ là con sông mới vọt ra từ thiên đàng và sắp tưới gội toàn thế giới; Mẹ là tấm khăn biểu tượng được trải trên mặt đất để đón sương điềm lạ; Mẹ là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống, mà trong ngày này sinh ra cho những kẻ đã có Evà như là mẹ của tội lỗi và của cái chết” (I. Schuster, Liber sacramentorum, Marietti, Torino. Edd. divv. VIII, in fine).

Đức Maria là ”ngôi sao báo trước mặt trời và là cung lòng của Thiên Chúa nhập thể”. Biến cố Đức Maria sinh ra được diễn tả một cách tổng kết trong điệp ca Benedictus Kinh Thần vụ của ngày lễ: ”Việc Mẹ sinh ra, hỡi Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, đã báo trước niềm vui cho toàn thế giới: từ Mẹ đã sinh ra mặt trời công chính, là Chúa Kitô Chúa chúng con: Người đã cất án phạt và đã đem tới ân sủng, đã chiến thắng cái chết và ban lại cho chúng ta sự sống”.

Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria là một thời sự gây kinh ngạc, bởi vì nó trực tiếp gắn liền với đề tài Chúa Kitô ánh sáng, là một đề tài rất cổ xưa (Giustino, Apl., I,57) và đã được phát triển sau đó, đặc biệt bởi các giáo phụ thuộc thế kỷ thứ IV. Và nó đã được đào sâu trong các tuần lễ phụng vụ quốc gia. Chẳng hạn tuần lễ phụng vụ tại Pescara, trung Italia năm 1977, về đề tài ”Chúa nhật ngày của Chúa và Chúa của các ngày”. Kết qủa nó là một đề tài tu đức cũng như đề tài mục vụ, bởi vì nó gắn liền mật thiết với đề tài phục sinh. Hoc giả J. A. Jungmann so sánh cuộc sống của Kitô hữu, coi phục sinh như biến cố của qúa khứ, với một loại hiện hữu khó hiểu, trong đó các thực tại Kitô như bị che kín bởi một làn sương dầy đặc. Trái lại, cuộc sống của Kitô hữu đặt để mầu nhiệm phục sinh vào trung tâm sự hiện hữu của mình, học giả Jungmann so sánh nó với ”một cuộc tạo dựng mới, bị xâm chiếm bởi ánh sáng rạng ngời của buổi sáng ngày phục sinh.

Trong phụng vụ lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria, Đức Mẹ liên tục được đặt để trong tương quan với ánh sáng: nếu Chúa Kitô là ”mặt trời công chính”, thì Mẹ Maria là bình minh, là ngôi sao báo trước mặt trời, là điểm khởi hành, là cung lòng của Thiên Chúa nhập thể.

Lịch sử cứu độ có một ”dẫn nhập” và đẫn nhập đó có tên là Maria: lời nguyện thánh lễ Sinh Nhật Đức Mẹ nói rõ điều đó: ”Chức làm mẹ của Đức Trinh Nữ ghi dấu khởi đầu ơn cửu rỗi của chúng con”.

Chính ý niệm này về Đức Maria như là khởi đầu ơn cứu độ của chúng ta đã khiến cho dân chúng đốt các đống lửa lớn trong đêm ngày mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 9, chẳng hạn như tại đền thánh Đức Mẹ Loreto ở miền trung Italia, để soi sáng các đường phố và quảng trưởng, hầu diễn tả niềm tin yêu của tín hữu đối với Mẹ Maria Ngôi Sao báo trước Mặt Trời, như ở Mitello Val di Catania, nơi có đền thánh kính Đức Bà Ngôi Sao.

Thế chúng ta có các dữ kiện lịch sử và thần học nào chứng minh cho ngày lễ Sinh Nhật Đức Mẹ không? Cần phải nói ngay rằng khác với trường hợp của ngày sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả được thánh sử Luca kể lại trong Phúc Âm chương 1,57-66, sách Phúc âm không cho chúng ta biết gì về ngày sinh của Đức Mẹ.

Tài liệu đầu tiên kể lại ngày sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria là mạo thư ”Phúc Âm của thánh Giacôbê”, cho biết Đức Maria sinh ra tại Giêrusalem, tại nơi, trên đó trong các năm 400 tới 600 người ta nói tới một vương cung thánh đường dâng kính Đức Mẹ gần hồ tắm Bếdatha có năm hành lang trong thành cổ, ở mạn bắc Đền Thờ Giêrusalem. Sau năm 603 Đức Thượng Phụ Sofronio khẳng định rằng đây là nơi Đức Mẹ đã sinh ra. Sau đó ngành khảo cổ đã xác nhận truyền thống này. Vương cung thanh đường được xây trên ngôi nhà của hai ông bà Gioakim và Anna, thân phụ và thân mẫu của Đức Mẹ, và là nơi Đức Trinh Nữ đã chào đời.

Lễ sinh Nhật Đức Trinh Nữ diễm phúc Maria đã bắt đầu bên Đông Phương, và chắc hẳn là tại Giêrusalem vào thế kỷ thứ V, nơi lưu giữ truyền thống sống động tin rằng có căn nhà nơi Đức Maria đã chào đời. Ngày lễ hẳn đã nảy sinh từ việc thánh hiến một nhà thờ cho Đức Maria gần hồ Bếdatha có năm hành lang, để kỷ niệm biến cố này. Và các truyền thống này gắn liền với đền thánh hiện nay kính thánh Anna, thân mẫu Đức Maria.

Tại sao lại mừng lễ Sinh Nhật Đức Mẹ vào ngày mùng 8 tháng 9? Lễ này được cử hành vào ngày mùng 8 tháng 9 chắc hẳn bởi vì Mẹ Maria giữ nhiệm vụ là khởi đầu công trình cửu độ, vì thế thật là thích hợp cử hành sinh nhật của Mẹ vào đầu năm của Giáo Hội theo tác phẩm Monologium Basilianum. Có một chuyện mạo thư tựa đề ”De ortu Virginis” Về ngôi vườn của Đức Trinh Nữ, cho rằng thánh Anna thân mẫu Đức Maria thụ thai vào đầu tháng 5 và chỉ sau bốn tháng mang thai đã cho con chào đời.

Tài liệu đầu tiên về lễ sinh nhật Đức Mẹ xem ra là một bài thánh thi của Romano il Melode, là người chuyên chép thánh thi giữa các năm 536-566. Thánh thi kể lại ngày sinh nhật Đức Trinh Nữ theo Phúc Âm thánh Giacôbê, và đề cập đến sự kiện ngày lễ được cử hành long trọng. Bên Đông phương lễ này mau chóng có tầm quan trọng lớn. Năm 701 Đức Giám Mục đảo Creta đã viết bốn bài giảng về lễ này (PG 97, 1046-1110).

Bên Tây phương lễ sinh nhật Đức Mẹ được du nhập vào hồi thế kỷ thứ VII. Bên Pháp chúng ta thấy lễ được nói đến trong lịch của Sonnatius là Giám Mục thành Reims giữa các năm 614-631. Tại Roma tác phẩm Sacramentario gelasiano (II, 54; ed. Mohlberg, nn. 1016-1019), ghi lại ba lời nguyện của thánh lễ. Tác phẩm Liber pontificalis (ed. Duchesne, I,376), thuộc hậu bán thế kỷ thứ VII, coi nó như đã có, và kể lại rằng Đức Giáo Hoàng Sergio I người Siro-siciliano, cai trị Giáo Hội giữa các năm 687-70i, muốn rằng lễ được cử hành với một cuộc rước kiệu đi từ nhà thờ thánh Adriano cho tới đền thờ Đức Bà Cả, y như cho các lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, lễ Truyền Tin và lễ Đức Mẹ ngủ.

Từ thế kỷ thứ XI lễ sinh nhật Đức Mẹ ngày càng có tầm quan trọng hơn nữa, đến độ có tuần bát nhật đi trước. Đây là điều đã được Đức Giáo Hoàng Innnocenzo IV thiết định năm 1243 theo sau một lời khấn hứa do các Hồng Y đưa ra trong Mật nghị Hồng Y đoàn năm 1241, khi các Hồng Y bị hoàng đế Federico II giam giữ trong vòng ba tháng trời. Năm 1378 Đức Giáo Hoàng Gregorio XI thiết định buổi canh thức vào hôm trước, sau này chính Đức Giáo Hoàng cử hành lễ trọng thể.

Song song trong lãnh vực nghệ thuật người ta cũng thường thấy có hàng loạt các bức khảm đá mầu diễn tả sinh nhật Đức Mẹ. Điển hình như loạt bức khảm đá mầu rất đẹp do ông Pietro Cavallini vẽ mẫu cho vương cung thánh đường Đức Bà Trastevere ở Roma trong hai thế kỷ XIII-XIV, rồi bức tranh nổi tiếng ”sinh nhật Đức Maria”, của vị thầy chuyên thực hiện các bức tranh về cuộc đời Đức Mẹ khoảng năm 1460, được giữ trong viện bảo tàng tranh ảnh ở Monaco.

Lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria đã được thiết định vào ngày mùng 8 tháng 9 trước thời Đức Giáo Hoàng Sergio I đã không bị điều kiện hóa bởi lễ trọng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày mùng 8 tháng 12. Vì ý niệm về Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội đã chỉ có mãi sau này. Nhưng chính lễ sinh nhật Đức Mẹ lại điều kiện hóa lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày mùng 8 tháng 12.

Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ là lễ của sư tràn đầy và vơi nhẹ, vì nó được mừng bắt đầu vào mùa thu, nghĩa là sau cái nóng bức của mùa hè, khi khí hậu mát mẻ và dễ chịu hơn, và khi nho và nhiều thứ trái cây khác bắt đầu chín mọng. Do đó lễ Sinh Nhật Đức Mẹ diễn tả hai ý niệm rất đẹp: thứ nhất là ý niệm về sự ”tràn đầy viên mãn của thời gian” và ý niệm sự vơi nhẹ mà Mẹ Maria đếm đến cho loài người. Là thụ tạo tuyệt vời được Thiên Chúa tuyển chọn từ đời đời để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế biến cố Đức Maria chào đời mở màn cho việc thực hiện công trình cứu cuộc của Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Galát thánh Phaolo diễn tả thời điểm quan trọng biến cố Chúa Giêsu Kitô nhập thể như sau: ”Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (Gl 4,4). Nhưng trước khi Chúa Cứu Thế có thể sinh ra, đã phải có ngày Mẹ của Người là Đức Trinh Nữ Maria chào đời, đã phải có ngày Sinh Nhật của Mẹ. Vì vậy có thể nói thời gian viên mãn ấy đã bắt đầu với biến cố Đức Maria chào đời. Mẹ vào đời để bắt đầu hiện thực chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Mẹ là nước mát từ Trời đổ xuống trên trái đất khô cằn nứt nẻ vì tội lỗi của loài người, để cùng Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ lại biến nó trở thành vườn địa đàng, nơi ngày ngày Thiên Chúa gặp gỡ và chuyện vãn thân tình với con người.

Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ



Lần trước chúng ta đi tới kết luận lễ Sinh Nhật Đức Mẹ là lễ của sự tràn đầy và vơi nhẹ, vì nó được mừng bắt đầu vào mùa thu, nghĩa là sau cái nóng bức của mùa hè, khi khí hậu mát mẻ và dễ chịu hơn, và khi nho và nhiều thứ trái cây khác bắt đầu chín mọng.

Do đó lễ Sinh Nhật Đức Mẹ diễn tả hai ý niệm rất đẹp: thứ nhất là ý niệm về sự ”tràn đầy viên mãn của thời gian” và ý niệm sự vơi nhẹ mà Mẹ Maria đem đến cho loài người. Là thụ tạo tuyệt vời được Thiên Chúa tuyển chọn từ đời đời để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, biến cố Đức Maria chào đời mở màn cho việc thực hiện công trình cứu cuộc của Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Galát thánh Phaolô diễn tả thời điểm quan trọng biến cố Chúa Giêsu Kitô nhập thể như sau: “Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (Gl 4,4). Nhưng trước khi Chúa Cứu Thế có thể sinh ra, đã phải có ngày Mẹ của Người là Đức Trinh Nữ Maria chào đời, đã phải có ngày Sinh Nhật của Mẹ. Vì vậy có thể nói thời gian viên mãn ấy đã bắt đầu với biến cố Đức Maria chào đời. Mẹ vào đời để bắt đầu hiện thực chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Mẹ là nước mát từ Trời đổ xuống trên trái đất khô cằn nứt nẻ vì tội lỗi của loài người, để cùng Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ lại biến nó trở thành vườn địa đàng, nơi ngày ngày Thiên Chúa gặp gỡ và chuyện vãn thân tình với con người.

Trong Thánh Kinh Cựu Ước tất cả đều quy hướng về thời điểm của biến cố nhập thể, và Thánh Kinh Tân Ước bắt đầu từ đó: Đức Trinh Nữ Maria xuất hiện chính trong thời điểm tràn đầy ấy. Khi giải thích bài đọc hai của Phụng vụ giờ kinh lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, thánh Anrê đảo Creta bình luận rằng Sinh Nhật Đức Maria giống như một đá mốc đặt giữa Thánh Kinh Cựu Ước và Thánh Kinh Tân Ước. Nó cho thấy sự thật tiếp theo các dấu chỉ và hình ảnh, và tân ước tiếp theo cựu ước” (Discorsi, 1, PG 97,810). Liên quan tới sự ”viên mãn của thời gian” phụng vụ lễ Sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria liên tục nêu bật nó với các giọng điệu khác nhau: trong bài đọc thứ nhất của Phụng vụ giờ kinh người ta báo trước thời điểm vĩ đại của sự xuất hiện và sự cộng tác thân tình của Đấng sẽ chiến thắng vĩnh viễn con rắn của hỏa ngục. Sự xuất hiện ấy được chỉ định soi sáng cho toàn Giáo Hội.

Trong lễ sinh Nhật Đức Trinh Nữ Maria đề tài ”ánh sáng” thường xuyên xuất hiện: ”hình ảnh của Người là ánh sáng cho toàn dân Kitô” (đáp ca hai bài đọc Kinh Thần Vụ); ”Trong thế giới đã thắp lên một ánh sáng khi Đức Trinh Nữ sinh ra” (điệp khúc hai Kinh Sáng); ”Từ ngươi đã sinh hạ mặt trời của công lý” (điệp khúc Kinh Chúc tụng Đức Chúa). Và cùng với đề tài ánh sáng hiển nhiên cũng có đề tài niềm vui nữa: ”Với đức tin và niềm vui chúng ta hãy cử hành việc sinh ra của Đức Trinh Nữ Thánh” (đáp ca 1 bài đọc Kinh Thần Vụ); ”Mọi tạo vật hát lên vì vui sướng, nhảy mừng và tham dự vào sự hoan hỉ của ngay này” (bài dọc hai của Kinh Thần Vụ); ”Lậy Mẹ Maria, với niềm vui chúng con cử hành ngày Mẹ sinh ra” (điệp ca 3 Kinh Sáng); ”Việc Mẹ sinh ra đã loan báo niềm vui cho toàn thế giới” (Điệp ca Kinh Chúc Tụng Đức Chúa).

Thời gian viên mãn, ánh sáng và niềm vui. Có lẽ chúng ta sẽ hiểu rõ hơn tầm quan trọng mà ngày sinh nhật của Mẹ có đối với nhân loại, nếu chúng ta chú ý tới điều kiện của một người bị tù. Ngày sống của người bị tù dài lê thê bất tận… Đêm cuối cùng ở trong tù anh ta đếm từng phút và sau cùng cửa tù rộng mở: giờ chờ đợi sự tự do biết bao nhiêu đã tới!… Các phút dài vô tận ấy, được đếm từng giây ấy đưa chúng ta trở về với trang Tin Nừng về gia phả của Chúa Giêsu. Các tên nối tiếp nhau với một nhịp điệu buồn buồn: ”Abraham sinh Igiaác, Igiaác sinh Giacóp, Giacóp sinh Giuđa… Giêssê sinh Đavít, Đavít sinh Salomon…. ” (Mt 1,2a.6ab). Sau cùng điểm giờ Thiên Chúa muốn: đó là thời viên mãn, khởi đầu của ánh sáng, bình minh của ơn cứu độ: ”Giacóp sinh Giuse, chồng bà Maria, từ bà đã sinh ra Đức Giêsu gọi là Kitô” )Mt 1,16).

Như thế chúng ta thấy phụng vụ thiết lập một sự song song giữa Chúa Kitô và Mẹ Maria. Phụng vụ không có thói quen cử hành ngày sinh ra của các thánh. Trường hơp trừ duy nhất là sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả. Nhưng phụng vụ cử hành cái chết của các vị và gọi là ”ngày sinh ra”, ngày các vị sinh vào Trời. Nhưng trái lại, khi đó là trường hợp của Mẹ Maria Rất Thánh, Mẹ Đấng Cứu Thế, của Đấng giống Chúa nhất, thì có sự song song hiển nhiên giữa Chúa Kitô và Đức Mẹ. Vì thế, cũng như biến cố thụ thai Chúa Giêsu được mừng ngày 25 tháng 3 và lễ Chúa giáng sinh mừng ngày 25 tháng 12, biến cố Đức Mẹ được thụ thai vô nhiễm được mừng ngày mùng 8 tháng 12 và lễ Sinh nhật Đức Mẹ mừng ngày mùng 8 tháng 9. Cũng thế chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, và mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời và lễ Đức Maria Nữ Vương.

Thánh Anrê đảo Creta kêu lên: ”Ngày lễ sinh nhật Đức Trinh Nữ là ngày, trong đó Đấng Tạo Dựng vũ trụ đã xây đền thờ của Người, hôm nay là ngày trong đó, bởi một dự án tuyệt vời, thụ tạo trở thành nơi ở được tuyển chọn trước của Đấng Tạo Hóa” (Discorsi, 1, PG 97,810).

Các bài đọc trong thánh lễ được đề nghị cho lễ Sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria là sách Mikha chương 5 câu 2 đến câu 5, thư gửi tín hữu Roma chương 8 câu 28 tới câu 30, Phúc Âm thánh Mátthêu chương 1 các câu 1 tới 16, và 18 tới 23. Chúng diễn tả công trình của Thiên Chúa trong việc xây cất đền thánh, nơi ở của Người. Thánh nữ Matilde nói rằng Thiên Chúa đã chăm sóc việc dựng nên tiểu vũ trụ là Đức Maria, hơn là săn sóc việc dựng nên đại vũ trụ là toàn thế giới. Như thế Đức Maria xuất hiện như là ”thời điểm cố định của cố vấn vĩnh cửu”, và người ta đặc biệt nêu bật đặc ân đồng trinh của Mẹ. Bài đọc thứ hai trích từ chương 8 thư gửi giáo đoàn Roma nhấn mạnh sự tiền định của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người vào chương trình của Thiên Chúa, trong khi bài đọc thứ nhất và Phúc Âm nêu bật chức làm mẹ đồng trinh, được đặt định cho Đức Maria, để xứng đáng là Mẹ của Đấng Cứu Thế.

Trước hết là sự kiện Đức Maria là trinh nữ sẽ thụ thai. Văn bản sách ngôn sứ Mikha viết: ”Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Israel cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Israel. Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa, vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất. Chính Người sẽ đem lại hòa bình. Khi Assur xâm nhập xứ sở và giày đạp đất nước chúng ta, chúng ta sẽ đặt bảy mục tử và tám thủ lãnh chống lại chúng. Họ sẽ dùng gươm mà cai trị đất nước Assur, lấy giáo mà cai trị xứ Nimrod. Nhưng Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi Assur, khi nó xâm nhập xứ sở, và giày xéo lãnh thổ chúng ta” (Mk 5,2-5).

Văn bản trên đây của ngôn sứ Mikha là một trong các lời tiên tri cứu thế nổi tiếng nhất. Ngôn sứ đã loan báo sự tàn lụi của các vương quốc miền bắc và miền nam như hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên dân chúng vì họ đã bỏ Ngài để đi theo các thần linh ngoại giáo và tôn thờ chúng. Nhưng giữa các tối tăm của đổ vỡ tang thương ấy bừng lên một ánh sáng. Và luôn luôn xảy ra như vậy! Thiên Chúa sẽ để cho con cái Israel rơi vào quyền lực của những người khác cho tới khi vị có sứ mạng thống lãnh Israel xuất hiện.

Xem ra tác giả muốn làm như mình là một người mầu nhiệm, kỳ bí, bởi vì ông biết điều ông nói tới đã được mọi người biết rồi, và nói rằng từ Bếtlehem vùng Efrata sẽ xuất thân vị lãnh đạo, người hướng dẫn mới: ông thực sự nghĩ tới Bếtlehem, là quê hương của vua Đavít, và vì thế nghĩ tới Đấng Messia, thuộc dòng dõi vua Đavít, như là một lập lại trong lịch sử: người ta sẽ bắt đầu trở lại vối nột vua Đavít mới, với Đấng Cứu Thế Messia.

Đây cũng là điều được biết đến trong thời Chúa Giêsu, như thánh Mátthêu ghi lại trong chương 2 trình thuật ba đạo sĩ phương đông tìm đến bái lạy Đấng Cứu Thế mới sinh: ”Khi Đức Giêsu ra đời tại Bếtlehem, miền Giuđea, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: ”Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: ”Tại Bếtlehem, miền Giuđêa, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: ”Phần ngươi hỡi Bếtlêhem, miền Giuđêa, ngươi đâu phải là một thành nhỏ nhoi nhất của Giuđêa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2,1-6).

Kiểu nói của ngôn sứ Mikha không chỉ được hiểu trong nghĩa thần học của một ”bắt đầu trở lại trong lịch sử”, nhưng cũng được hiểu trong nghĩa địa lý cụ thể đích thật. Trong một cách thức xem ra kỳ lạ ngôn sứ Mikha không giới thiệu vị lãnh đạo, người hướng đạo mới, cho bằng người đàn bà sẽ cho vị đó chào đời. Về vị thủ lãnh đó ngôn sứ nói ông sẽ là một trưởng mục tử, sẽ cai trị với ơn thánh của Chúa, và vương quốc của người sẽ là một vương quốc hòa bình đại đồng. Về người mẹ ngôn sứ Mikha còn nói những điều kỳ diệu hơn nữa, bao trùm một ý nghĩa nhiệm mầu, nhưng cả những người thời đó cũng đã có thể hiểu và lượng định: ”… Cho tới khi một phụ nữ phải sinh sẽ sinh con” (Mk 5,2). Đương nhiên là ngôn sứ Mikha và cùng với ông là tất cả dân Do thái nghĩ tới lời sấm về người thiếu nữ của chương 7 câu 14, mà ngôn sứ Isaia đã nói tới trước đó khoảng 30 năm: ”Vì vậy chính Giavê sẽ ban cho các ngươi một dấu chỉ: Này đây, người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14).

Hiến chế về Giáo Hội của Công Đồng Chung Vaticăng II cũng thừa nhận rằng lời tiên tri của ngôn sứ Mikha được thành toàn nơi Đức Maria: ”Đây là Đức Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh một Con Trai, tên Người là Emmamuel” (x. Is 7,14; Mk 5,2-3; Mt 1,22-23” (LG 55).

(Thánh Mẫu Học bài số 375 & 376)

Linh Tiến Khải

R.Vatican

Related posts